BỐI CẢNH LỊCH SỬ CHÚA JESUS RA ĐỜI, LỊCH SỬ CHÚA GIÊ
The aim of this website is simply to make more easily available various writings on areas of mainly theological importance for my spiritual journey…
MenuSkip to content

Tỉnh Judea ở thế kỷ thứ nhất: Trước khi bắt đầu tìm hiểu về cuộc đời và sứ vụ Chúa Giêsu, chúng ta cần phải thừa nhận tầm quan trọng của lịch sử để cố gắng làm quen với các khung cảnh thế giới nơi xưa kia Chúa Giêsu đã sống. Xã hội, chính trị, kinh tế, tôn giáo và địa lý của không gian và thời gian lúc đó chắc chắn là những yếu tố đã định hình cuộc đời Chúa Giêsu giống như chúng cũng đang định hình cuộc sống của tất cả chúng ta bây giờ. Kiến thức này sẽ cung cấp cho chúng ta một điều kiện cần thiết để bắt đầu việc tìm hiểu cuộc sống và sứ vụ của Chúa Giêsu lịch sử. Bạn đang xem: Lịch sử chúa jesus
—————————————–
Dẫn NhậpCuộc sống ở GalilêJerusalemXã hội & Chính trịDẫn Nhập
Chúa Giêsu là người Do Thái, gốc Palestine.Ngài đã lớn lên với những câu chuyện về những cuộc chinh phục và đàn áp.Những câu chuyện kể lại nhiều đợt xâm lăng của các nước láng giềng để tìm cách khuất phục dân Do Thái. Đế quốc La Mã chiếm đóng Israel (63 BCE.) là giai đoạn cuối cùng của một chuỗi dài các cuộc xâm lược, bắt đầu từ người Babylon (539 BCE), sau đó là người Ba Tư rồi đến người Hy Lạp. Bản sắc dân tộc Do Thái dựa trên những câu chuyện của các Tổ phụ họ – Abraham, Isaac và Jacob – cũng như câu chuyện lịch sử cốt lũy nhất khi Môi-se lãnh đạo giải phóng họ thoát khỏi ách nô lệ của người Ai Cập trong cuộc Xuất hành. Thêm vào đó là những sử tích kể lại sự tự trị thành công dưới thời các vua Do Thái Saul, David và Solomon. Tuy nhiên sau cùng lịch sử lại kết luận rằng người Do Thái thường là những nạn nhân bên phe chiến bại hơn là những người chiến thắng trong những cuộc chiến gìn giữ chủ quyền quốc gia họ.
Bản sắc Do
Thái tuy thế vẫn được duy trì – như với hầu hết các dân tộc bị áp bức- bởi một niềm tin tâm linh sâu sắc. Niềm tin này đã được thể hiện qua một Giao ước thần học: niềm tin mà Đức Giê-hô-va (Yaweh) đã chọn họ đóng một vai trò duy nhất trong lịch sử loài người. Cụ thể lúc ấy, người Do Thái đang nôn nóng chờ đợi xuất hiện một Đấng Thiên Sai, người mà họ tin rằng sẽ cho phép họ hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng này. Dù sao cũng đã có những hiểu biết khác nhau về sứ mạng và vai trò của Đấng Thiên Sai họ đang mong đợi. Từ việc thành lập một vương quốc chính trị Do Thái tại đây trên trái đất này hay cho tới một khái niệm cánh chung của một vương quốc thiên đàng ở ngày tận thế (điều mà nhiều người Do Thái coi là một thần học cốt lũy chính yếu của niềm tin). Nói cách khác tôn giáo và chính trị đã hòa quyện sâu sắc trong đức tin và tâm huyết người Do Thái thời ấy.
Vào thời điểm Chúa Giêsu chào đời, Người La Mã đã thiết lập một hệ thống chính quyền bao gồm các trấn giám La Mã và các nhà lãnh đạo Do Thái, là những người đại điện Rome trực tiếp kiểm soát xứ sở này. Đây là hệ thống quyền lực trong đó gia đình của Herod Đại đế đã được giao phó rất nổi bật trong lịch sử. Mặc dù gốc gác ông ta chỉ một nửa là người Do Thái, gia đình Herodian đã bị gièm pha bởi dân Do Thái vì sự cai trị chuyên chế và cũng vì vai trò chính của họ trong việc bán sạch những nguồn di sản Do Thái cho một cường quốc nước ngoài. Một trong những con trai của Herod, Archelaus, vì quá tàn bạo trong việc thực thi quyền lực ở Jerusalem đến nỗi buộc Rome phải thay thế ông bằng một trong những thống đốc của họ, Pontius Pilate, người đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tuyên án đóng đinh Chúa Giêsu. Còn người con trai khác, Herod Antipas, chịu trách nhiệm về quyết định chặt đầu thánh John Báp-tít. Đó chính là cùng một Antipas mà mọi người đã được biết đến qua sự chế giễu của ông đối với Chúa Giêsu tại phiên tòa trước khi Ngài chịu đóng đinh.
Chúa Giêsu là người Nazarene. Ngài sống phần lớn cuộc đời ở thị trấn Nazareth trong tỉnh Galilee. Mặc dù là một ngôi làng nhỏ,Nazareth gần các trung tâm đô thị lớn như Tiberias và Sepphoris. Tuy không giống như những thành phố này vì chủ yếu những nơi ấy người ngoại bang (không phải Do Thái) cư ngụ, Nazareth là nơi tụ tập đa số người gốc Do
Thái. Thị trấn này cũng tương đối nghèo và rất đông dân; thêm vào đó là một vùng khan hiếm tài nguyên thiên nhiên như nước và đất màu mỡ. Trong tình huống đó, có những xu hướng dễ dàng gây nên bệnh tật và truyền nhiễm. Tuy nhiên, Nazareth không thể được gọi là vùng nghèo khổ. Chúa Giêsu đến từ một gia đình thợ thủ công hoặc thợ mộc cho thấy Ngài thuộc vào một tầng lớp trung lưu trong xã hội, có mức sống kinh tế phải chăng.

Giáo dục được xem là ưu tiên hàng đầu của người Do Thái. Chúa Giêsu chắc hẳn đã học được Kinh thánh tại trường làng (cho đến khi mười hai tuổi) và tại hội đường địa phương. Vì có những câu chuyện đã đề cập đến kiến thức Jesus về tiếng Hebrew của Do Thái (ngôn ngữ của Kinh thánh) và tiếng Aramaic (ngôn ngữ đã được xử dụng trong các buổi thảo luận tôn giáo). Đó cũng là thời mà phong tục Do Thái khuyến khích các thanh niên tìm cách gắn bó với một thầy giáo địa phương hay một bậc hiền nhân nào đó. Mặc dù chúng ta biết rất ít về cuộc sống trưởng thành của Chúa Giêsu, nhưng chúng ta được biết rằng cuối cùng Ngài đã chọn trở thành một môn đệ của John the Baptist. Có thể qủa quyết chắc rằng khi tới thời điểm ‘sứ vụ công khai’ của mình, Chúa Giêsu đã rất thành thạo Kinh thánh và truyền thống Do Thái. Điều này cho thấy rằng Ngài đã dành nhiều năm học hỏi, thảo luận về đức tin và truyền thống Do Thái của Ngài.
Jerusalem
Jerusalem là trung tâm thế giới của dân Do Thái. Người nam Do Thái buộc phải hành hương đến đền thờ Jerusalem cho ba dịp lễ chính của Do Thái: Vượt qua, Ngũ tuần và Đền tạm. Tuy nhiên, đi bộ từ Nazareth tới Jerusalem là một hành trình có thể mất từ bốn đến năm ngày (khoảng một trăm năm chục cây số), nên không chắc rằng Chúa Giêsu thực hiện chuyến đi này thường xuyên. Tin Mừng cho chúng ta biết rằng Ngài đã đi với gia đình khi ở tuổi mười hai.Ngài cũng đến thăm Jerusalem trong cuộc sứ vụ công khai của mình (một hoặc ba lần tùy thuộc vào Sách Phúc Âm). Trong một lần đến đền thờ, người ta đã ghi nhận một sự kiện quan trọng khi Chúa Giêsu đã phản ứng có phần nào bạo lực với những người đang sử dụng đền thờ cho mục đích thương mại. Rất có thể vì hành vi này của Chúa Giêsu đã gây liên quan đến phiên tòa xét xử Ngài để cuối cùng dẫn đến cuộc hành quyết. Quan tâm tới thực tế lịch sử hơn là ngôi đền thờ này đã bị người La Mã phá hủy vào năm 70 CE trong cuộc nổi dậy của người Do Thái.
Xã hội và chính trị
Do Thái giáo vào thời Chúa Giêsu là một hỗn hợp phức tạp trong một xã hội có nhiều điểm khác nhau về những ý hệ tư tưởng, chính trị và tôn giáo. Nói chung, chúng ta có thể nói về bốn phong trào đặc trưng,những ý thức hệ hay những lối sống. Vì rất hữu ích khi đặt Chúa Giêsu vào các nhóm trong xã hội thời đại của Ngài để chúng ta có thể đánh giá được những nét đặc sắc và khác biệt trong cuộc sống và sứ mệnh Ngài.
Phong trào Zealot chọn xu hướng cách mạng. Nhóm này ủng hộ việc sử dụng bạo lực bên ngoài, thậm chí hô hào nổi loạn dùng vũ trang, để giải phóng Do Thái ra khỏi cảnh áp bức của La Mã. Vì theo họ nghĩ, không còn cách lựa chọn nào khác để mang đến sự giải phóng cuối cùng cho người Do Thái. Dựa vào quan điểm này, Zealots đã được coi như là những người đấu tranh tự do hoặc nhóm khủng bố. Chúng ta có so sánh họ như phong trào vũ trang “Việt Minh” trong những nổi dậy chống chính quyền đô hộ Pháp trong cuộc chiến tranh giành độc lập tại Việt Nam. Chắc chắn, Chúa Giêsu đã có cảm tình nào đó với nhóm này khi nhìn qua những người theo Ngài, ví dụ ‘Simon Zealot’. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã gây nên những xung đột với đền thờ Do Thái và cả nhà nước La Mã. Cuối cùng, Ngài bị xử tử như một người cách mạng bạo lực zealot. Tuy nhiên, rất ít học giả cho rằng Chúa Giêsu là một nhà cách mạng bạo lực. Giống như các nhân vật phi bạo lực khác trong lịch sử, ví dụ Mahatma Gandhi, Chúa Giêsu có thể được xem như người có thể gây ra nhiều mối đe dọa căn nguyên cho trật tự đã được thiết lập hơn bất kỳ người trang bị vũ trang có thể làm trong thời kỳ ấy.
Những người Sa-đu-sê (Sadducees) là những người có đầu óc thực tế nhất thời đó. Là người giàu có quý tộc, các đấng lãnh đạo tôn giáo, họ tìm cách bảo tồn sự giàu có của họ và quyền lực thông qua thỏa hiệp với Rome. Về mặt chính trị, đây là lựa chọn hữu hiệu nhất. Hầu hết các thành viên của Tòa công luận Sanhedrin xuất phát từ nhóm Sa-đu-sê. Theo nhiều cách,Sa-đu-sê có thể được xem như là nhóm có quan điểm ít nặng về tôn giáo nhất chứng minh qua việc họ không tin vào sự phục sinh từ cõi chết. Tuy nhiên, chúng ta sẽ sai lầm khi xem họ là bất khả tri hay vô thần như một số người đã tranh luận. Họ đã cam kết Đức tin của họ dựa trên căn bản những bộ sách đầu của Kinh thánh của Do Thái. Hơn nữa, là những người đứng đầu giữ trật tự trong xã hội Do Thái thời ấy, họ quan tâm nhiều đến các vấn đề thời sự hơn là đầu cơ vào cuộc sống sắp tới của đời-sau. Trong Tin mừng, rõ ràng nhóm Sa-đu-sê là những đối thủ chính của Chúa Giêsu khi chịu xét xử và cái chết của Ngài. Họ thấy chính xác rằng nhản hiệu tôn giáo cực đoan của Chúa Giêsu sẽ đe dọa đến quyền lực và địa vị của họ.
Người Pha-ri-si (Pharisees) nhìn theo nhiều cách, họ là những người duy tâm của xã hội Do Thái. Phần lớn của các kinh sư (‘nhà thần học’ thời đó) là người Pha-ri-si. Nói chung, mặc dầu họ bị ‘mang tiếng xấu’ trong các Tin mừng, những người Pha-ri-si tìm cách sống một cuộc sống tinh thần trong sạch bằng cách tuân theo tỉ mỉ lề luật của Torah (lề luật Do Thái). Họ không tin vào sự thỏa hiệp với La Mã (như nhóm Sa-đu-sê), cũng như trong hoạt động cách mạng (như nhóm Zealots). Không còn nghi ngờ gì khi sự chú trọng của họ về lề luật đã có thể dẫn đến một chủ nghĩa lề luật, cho đến độ gây nên nguyên nhân cho những hành vi giả hình của họ. Tuy nhiên, nhiều người Pha-ri-si là những người có tinh thần cao và sâu sắc, như Thánh Phao Lô. Họ tin vào sự sống lại từ cái chết của con người. Từ quan điểm của họ, Chúa Giêsu dường như làm tương đối hóa não trạng họ khi Ngài rao giảng đích thực về lề luật và điều này đã gây lên những tức giận của họ đối với Ngài.
Cuối cùng,có nhóm người Essenes đã cứu vản vấn nạn về bản sắc của Do Thái trong một quốc gia Israel bị đô hộ bởi La Mã bằng cách rút về trong những vùng có khung cảnh giống sống như các tu viện. Họ có lẽ được coi như là những kẻ lập dị khi họ hoàn toàn không tham gia sinh hoạt trong xã hội Do Thái thời ấy. Nhóm này đáng được chú ý nhất trong thời Chúa Giêsu, một cộng đồng Qumran, khi họ theo một lối sống khổ hạnh và trong niềm tin trong tâm hồn chờ đợi sự can thiệp Thiên Chúa khi Ngài sẽ đến với lịch sử loài người trong ngày tận thế. Không chắc là Chúa Giêsu đã có bất kỳ mối liên hệ đặc biệt nào với nhóm này hay không. Tuy nhiên, Ngài chắc đã được giới thiệu qua phương cách sống khổ hạnh này thông qua mối liên hệ của Ngài với các môn đệ của thánh Gioan Báp-tít, John the Baptist, người được coi như đại diện cho nhóm Essenes này khi Ngài đã có một lối sống ẩn dật trong chốn hoang vu, rút lui ra khỏi đám đông của các làng mạc hay đô thị. Chúng ta có thể xác nhận được rằng sứ vụ công khai của Chúa Giêsu đã thể hiện qua quyết định khi Ngài trực tiếp tham gia rộng rãi với các tầng lớp trong xã hội thời ấy của Ngài.
Xem thêm: Go/ big c vĩnh phúc tuyển dụng 2016, pg pb vĩnh phúc
Do đó, chúng ta có thể nghiệm rằng, một khi Chúa Giêsu quyết định liên hệ với tất cả các nhóm chính trị xã hội và các hệ phái tư tưởng tôn giáo khác nhau của thời đại mình, Ngài đã chọn một cuộc sống độc đáo cho riêng mình. Đó là một vị thế mang vài nét tương tự như người thầy hướng dẫn mình, Gioan Báp-tít, mặc dù ta thấy có nhiều điểm khác biệt nỗi bật trong giáo lý và sứ vụ của hai đấng. Một số học giả so sánh Chúa Giêsu với một vị đương thời khác của Ngài, một nhà giáo tên Hillel. Cả Chúa Giêsu và Hillel đều thấm nhuần sâu sắc thánh kinh Torah Do Thái, và cả hai đều nổi tiếng những rao giảng về lòng từ bi, tha thứ và yêu thương. Sứ vụ của hai người đều hướng sâu vào thân phận con người. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không chỉ là một vi thầy, Ngài còn nỗi tiếng là người làm tiên tri, người làm phép lạ, người chữa bệnh, người bảo vệ người nghèo và bị áp bức. Do đó, sự khác biệt của Chúa Giêsu cần phải được đánh giá cao trong khung cảnh cuộc sống của người Do Thái thời ấy. Đấy là một bối cảnh rối rắm trong đó tôn giáo và chính trị hòa quyện vào nhau gây ra nhiều phức tạp mà có thể còn nhiều hơn như chúng ta thường nghĩ về Ngài trước đây.
Chúa Giêsu Kitô là một “nhân vật” có thật trong lịch sử, sinh ra ở đất nước Do Thái, không những được ghi chép trong Kinh Thánh, mà còn được sử sách chính thống ghi nhận.
“Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”
Năm sinh của Người được đặt làm ngày đầu tiên của Công lịch (năm thứ Nhất). Sau này, các nhà nghiên cứu lịch sử xác định được chính xác là năm thứ Sáu. Sở dĩ có sự chênh lệch này là do thời xưa chưa có các cuốn lịch như bây giờ, việc xác định thời gian chủ yếu dựa vào mốc là các thời đại vua chúa trị vì, giống như ở ta có thời Trần, Nguyễn… Chúa Giêsu Kitô sinh ra vào thời đại của Hoàng đế Caesar Augustus.
Ngày lễ Giáng sinh kỷ niệm Chúa Giêsu sinh ra đời là do Ki tô giáo lựa chọn, thực ra không ai biết chính xác Chúa Giêsu sinh ra ngày, tháng nào. Theo truyền thống, người Do Thái mừng lễ thần Mặt trời vào những ngày cuối tháng 12 hàng năm, vậy nên người ta đã chọn ngày 25/12 làm ngày sinh nhật Chúa, vì đối với người Ki tô giáo, Chúa Giêsu chính là Ánh sáng cứu rỗi.


Kinh Thánh và lịch sử đều ghi chép rằng Chúa Giêsu được sinh ra tại làng Bêlem, thuộc miền Giuđêa, Israel. Chúa được sinh ra trên một cánh đồng vào một đêm đông giá rét, trong một cái hang là chuồng mà những người chăn bò chăn cừu nghèo khổ nhốt gia súc của họ vào ban đêm. Chúa Giêsu khi sinh ra được đặt nằm trong máng cỏ. Chuồng nhốt bò và cừu chắc hẳn là không sạch sẽ thơm tho gì, hẳn là hôi thối bẩn thỉu vì đầy cứt và nước đái của bò và cừu.
Việc Chúa Cứu Thế được sinh ra trong cảnh bần hàn như những người nghèo khổ nhất, và chịu khổ hình rồi chịu cái chết thảm khốc như một tên tội phạm, đối với người Kitô giáo, đó chính là mầu nhiệm “huỷ mình ra không” của Chúa. Ngài đã không chỉ rao giảng đạo đức, rao giảng khiêm nhường và hy sinh chỉ bằng lời nói nhưng đã đã đi bước trước, đã làm gương trong hành động.
Thiên Chúa của người Kitô hữu đã sống một cuộc đời khiêm nhường đến tột cùng, ngay từ lúc chào đời: Ngài trở nên con của một thôn nữ ‘vô danh tiểu tốt’, là cô Maria không quyền quý cao sang, không gia thế lẫy lừng, không của hồi môn xúng xính. Ngài ký thác, trao cuộc đời vào lòng tốt của người cha nuôi là bác thợ mộc Giuse hiền lành, chất phác, không thế lực và ảnh hưởng nào trong xã hội.
